ĐỊNH NGHĨA ĐAU MÃN TÍNH
Chỉ có những người đang trải qua sự đau đớn có thể mô tả nó đúng cách. Đau là một trải nghiệm rất cá nhân.
Đau là một trải nghiệm cảm giác và cảm xúc khó chịu liên quan đến tổn thương mô thực tại hoặc tiềm năng.
Đau mãn tính là đau tiếp tục sau thời gian chữa khỏi bệnh thông thường hoặc đau kéo dài trên 3 đến 6 tháng, do bất cứ nguyên nhân nào.
Đau mãn tính có tính di truyền. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra có một biến thể gen, DRD1, DRD2 liên quan đến đau mãn tính.
LÂM SÀNG VÀ PHÂN LOẠI ĐAU
Đau cấp tính là đau có cường độ mãnh liệt và ngắn ngủi. Đau cấp tính có thể là một dấu hiệu của một chấn thương, bệnh lý nội tạng và khi vết thương lành nỗi đau thường biến mất, thời gian khoảng < 4 tuần.
Đau mãn tính – cảm giác này kéo dài lâu hơn so với đau cấp tính, thường 3-6 tháng. Đau mãn tính có thể nhẹ hoặc cường độ cao (nặng).
– Phân loại đau:
Đau do thụ thể (Nociceptive Pain)
Đau cơ thể (Soma)
Nội tạng: Đau không do thụ thể (Non-Nociceptive)
Do thần kinh
Đau do thần kinh giao cảm
– Nguyên nhân đau do thần kinh:
Đau thần kinh ngoại biên phát sinh ngoại vi (sợi nhỏ), bệnh thần chèn ép, bệnh thần kinh khu trú và đau chân tay ma sau cắt cụt. Sự tham gia của sợi “C” thể hiện bằng nhận thức bất thường của cảm nóng và “A delta” cảm giác lạnh.
Nguyên nhân phổ biến nhất của sợi thần kinh nhỏ là đái tháo đường kiểm soát kém, sự thiếu hụt vitamin (đặc biệt là tình trạng thiếu dinh dưỡng), các độc tố và các loại thuốc, virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV), hội chứng cận ung thư, và bệnh thần kinh di truyền (ví dụ, erythromelalgia, thoái hóa dạng tinh bột).
Đau thần kinh trung ương bao gồm đau sau đột quỵ não và đau từ bệnh tủy, như chấn thương, bệnh xơ cứng rải rác, bệnh tủy sống và liên quan đến HIV .
Đau thần kinh thường được mô tả như nhức nhối, cháy bỏng, và châm chích. Có thể có đau ở vùng tê, ngứa ran, hoặc cảm giác chân bị kim châm. Đau phát sinh từ một khu vực gây tê được gọi là “đau gây tê”.
Đau có thể không rõ một phân bó thần kinh ngoại vi cho da, nếu kiểm tra một bệnh sử hay khám tỷ mỉ sẽ tìm thấy một một phân phối thần kinh.
Một test kéo căng thần kinh hoặc đè nén nơi TK đi qua làm trầm trọng thêm cơn đau, ví dụ, nâng chân thẳng, xương đùi căng bằng cách mở rộng hông, đè ép dây TK trụ qua khuỷu tay.
Hội chứng đau khu vực phức hợp (complex Regional Paine syndrome); Hội chứng đau khu vực, xuất hiện vài ngày đến vài tuần sau khi chấn thương thực thể, có thể là lớn hay nhỏ, những phát hiện bất thường xa vùng tổn thương khu vựcđược chẩn đoán. Các thuật ngữ “loạn dưỡng giao cảm phản xạ “, “đau giao cảm ” đã được sử dụng trong quá khứ và vẫn còn hội chứng đau hỗn hợp khu vực (complex Regional Pain syndrome).
– Điều trị chung:
+ Tổng quan:
Quản lý đau mạn tính không ác tính phải được xem xét tất cả các khía cạnh từ chẩn đoán đến điều trị. Ở đây chúng tôi mô tả các nguyên tắc chung về quản lý cả nguyên nhân hiếm gặp của đau và cách điều trị đau, bao gồm cả nguồn gốc thần kinh.
+ Nguyên tắc của quản lý được lý:
» Mục tiêu: là quản lý đau, hướng tới cơ chế gây đau (có thể nghi ngờ đau).
» Nguyên tắc quản lý thuốc giảm đau;
» Thuốc được sử dụng trong một thời gian cố định (ngày 2-3 lần, sáng, chiều).
» Dự phòng tình huống khi vận động làm tăng đau, giảm đau bổ sung có thể được dự phòng.
» Cần được xem xét trong sự hiện diện của một đợt (đau cấp). Điều chỉnh chế độ thời gian dùng thuốc.
» Thuốc giảm đau thông thường.
Acetaminophen (hoặc paracetamol):
Thuốc này được sử dụng cho thời gian hạn chế đau thụ thể đau nhẹ. Nó không làm giảm bớt đau thần kinh nhưng có thể hữu ích khi đau thần kinh càng trầm trọng hơn bởi một thành phần đau thụ thể.
Liều lượng là 500 đến 1000 mg bằng đường uống mỗi 6 giờ.
Không dùng thuốc vời liều 4 g / ngày
Thuốc ít tác dung phụ nhưng liều tích lũy quá mức và quá liều có thể dẫn đến suy gan. Kéo dài thời gian prothrombin đã được báo cáo và chăm sóc phải được thực hiện với bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu, hạn chế cho bệnh nhân đái tháo đường.
Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs):
Những loại thuốc này được sử dụng để giảm đau mức độ vừa, đặc biệt là nếu có một phản ứng viêm. Không sử dụng lâu dài của NSAIDs (quá 4 tuần). Chúng ít có tác dụng hoặc không có lợi ích cho đau thần kinh và đau mãn tính. Hiệu quả của NSAID cũng khác nhau. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể đáp ứng tốt hơn với một vài loại (theo kinh nghiệm). Những loại thuốc NSAID có khả năng phản ứng dị ứng và tác dụng phụ về tiêu hóa, suy thận, cao huyết áp và suy tim.
Celecoxib: Thuốc ức chế COX -II- tên thương mại : celecoxib, Mibecer (VN). Thuốc ức chế COX- II ít có độc tính dạ dày tá tràng so với NSAID thông thường. Tuy nhiên, celecoxib mất tác dụng bảo vệ của nó khi dùng chung aspirin.
Rofecoxib đã được chứng minh có nguy cơ tim mạch cao hơn so với naproxen.
Tramadol:
Tramadol hoạt động tại các thụ thể μ-opioid và cũng làm tăng serotonergic và noradrenergic ức chế đau do thụ thể đau.
Nó được sử dụng để giảm đau từ trung bình đến nặng. Nó là hữu ích hơn ở những bệnh nhân đau nociceptive hơn trong những trường hợp đau do thần kinh.
Tramadol có thể hiếm khi gây co giật và cần được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân bị động kinh hoặc đồng thời với các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs). Tác dụng phụ phổ biến khác bao gồm buồn nôn, buồn ngủ, và đổ mồ hôi. Liều quá mức có thể suy hô hấp. Thuốc có thể được sử dụng mỗi 4-8 giờ. Tổng liều tối đa hàng ngày là 400 mg/ngày. Tramadol liều thường dùng 50-100 mg uống 6-8giờ. ULTRACET ® viên nén với tramadol 37,5 mg và 325 mg acetaminophen. 1-2viên/ 4-6 giờ.
Thuốc chống trầm cảm:
Chống trầm cảm ba vòng là thuốc hiệu quả nhất để giảm đau do thần kinh. Nó có thể có một số tác dụng trong điều kiện đau do thụ thể đau, chẳng hạn như đau mãn tính dai dẳng và hội chứng đau xơ cơ và điều kiện kết hợp của nó. Tác dụng giảm đau không phụ thuộc vào hiệu ứng tâm trạng thay đổi. Thuốc chống trầm cảm ba vòng thường có hiệu quả tốt nhất ở các các thử nghiệm lâm sàng đã có.
Liều khởi đầu cho amitriptyline là 10-25 mg vào ban đêm, liều lượng có thể tăng lên từ 10 đến 25 mg vào ban đêm mỗi 3 đến 7 ngày. Liều lý tưởng sẽ có hiệu quả tốt nhất với liều tối thiểu.
Tác dụng phụ là buồn ngủ, buồn nôn, táo bón, hạ huyết áp tư thế, khô miệng, tăng nhãn áp góc hẹp, và bí tiểu, đặc biệt là ở người già. Loạn nhịp tim có thể xảy ra ở những người dễ mắc, chẳng hạn như bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim gần đây.
Thuốc chống trầm cảm khác:
Duloxitine gần đây đã được chứng minh là có hiệu quả trong bệnh thần kinh đái tháo đường và hội chứng đau cơ xơ. Liều là từ 30 đến 60 mg mỗi ngày một lần. Tác dụng phụ là buồn nôn tương đối phổ biến. Tương tác thuốc, bao gồm hội chứng serotonin có thể xảy ra.
Venlafaxine đã được sử dụng ở liều 37,5 đến 300 mg/ngày trong đau mãn tính.
Paroxetin (20-40 mg/ngày) và citalopram (20-40 mg/ngày) đã được sử dụng. Các loại thuốc này hiệu quả cho BN trầm cảm và điều trị đau.
Thuốc chống động kinh:
Thuốc chống động kinh được sử dụng như thuốc giảm đau trong đau thần kinh. Pregabalin và Gabapentin được sử dụng thường xuyên hơn phenytoin, sodium valproate, và lamotrigine.
Carbamazepine (Tegretol) là thuốc hữu ích nhất trong các dây thần kinh sinh ba, thiệt hầu, và đau dây thần kinh chẩm.Liều khởi đầu là 50 mg/ngày và tăng liều sau 2 đến 3 ngày mỗi lần 50 mg/ngày.
Tác dụng phụ thường gặp bao gồm độc tính hệ thống thần kinh trung ương (buồn ngủ, buồn nôn, chóng mặt, mất điều hòa, và nhìn đôi), phát ban, hạ natri máu, và gan hoặc xương tủy nhiễm độc .
Oxcarbazepine (trileptal) có thể thay thế nếu carbamazepine trong trường hợp carbamazepin có chống chỉ định nhất là phát ban.
GabapentinGabapentin (Neurontin, Gabahasan, …) đã được chứng minh điều trị đau do nguyên nhân thần kinh và thụ thể đau mãn tính, thông qua phong tỏa kênh canxi trong đau thần kinh. Các thể lâm sàng chính mà gabapentin đã được chứng minh là có hiệu quả bao gồm thần kinh ngoại biên bệnh tiểu đường và các đau thần kinh khác.
Liều khởi đầu là 300 mg/ngày và liều này có thể tăng lên 300 mg/ngày mỗi ngày trong 3 ngày và sau đó mỗi tuần cho đến khi sự xuất hiện của đáp ứng lâm sàng hoặc độc tính. Liều tối đa thường được đưa ra là 2.400 mg/ngày chia ba liều ngày liều cao hơn lên đến 6.000 mg/ngày đã được sử dụng và hiệu quả. Chú ý BN suy thận vì thuốc được đào thải qua thận.
Tác dụng phụ bao gồm chóng mặt, mất điều hòa và buồn ngủ. Tác dụng phụ của nó tăng lên khi dùng chung các thuốc chống động kinh khác.
Pregabalin: Pregabalin là thuốc điều trị tốt nhất đã được chứng minh để giảm đau thần kinh, mặc dù thử nghiệm này trong thời gian ngắn,tác dụng của thuốc thông qua phong tỏa kênh canxi. Các thử nghiệm đã được thực hiện trong đau thần kinh đái tháo đường, đau thần kinh sau zona, đau chấn thương cột sống, đau đột quỵ, và hiện tại hội chứng đau cơ xơ cũng rất hiệu quả.
Liều khởi đầu là 75 mg vào ban đêm tăng lên sau vài ngày để đạt 150 mg. Liều tối đa là 300 mg/ngày. Một lợi ích thường rõ ràng trong vòng một đến hai tuần. Chú ý BN suy thận vì thuốc được đào thải qua thận.
Tác dụng phụ bao gồm chóng mặt và buồn ngủ, nhìn thấy mờ và chân sưng có thể xảy ra, tăng cân với liều cao.
Lamotrigine: Lamotrigin (Lamictal) là hữu ích trong đau dây thần kinh sinh ba, đau từ chấn thương cột sống, đau dây thần kinh và đau khác. Một thử nghiệm đã cho thấy lợi ích trong đau đớn sau khi bị đột quỵ. Liều có hiệu quả đã được chứng minh là có khoảng 400 mg/ngày.
Nguồn: www.facebook.com/groups/GroupCachDungThuoc